Khi tìm hiểu về hội họa Việt Nam, đặc biệt là nền mỹ thuật hiện đại, chúng ta thường nghe đến nhóm tứ kiệt “Nhất Trí, nhì Vân, tam Lân, tứ Cẩn” hay nhóm tứ trụ thế hai bao gồm “ Nghiêm – Liên – Sáng – Phái”. Họ là ai? Đâu là những họa sĩ nổi tiếng nhất Việt Nam?
Cùng Lanvu Gallery đi tìm hiểu thêm về các danh họa Việt Nam tại bài viết này, những người mà tên tuổi của họ đã vang đến tầm quốc tế.
1. Nguyễn Gia Trí (1908 – 1993)
Được mệnh danh là “cha đẻ của những bức tranh sơn mài tân thời của Việt Nam”, Nguyễn Gia Trí là cây đại thụ lớn nhất của nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam. Ông là người đi đầu trong công việc chuyển những bức tranh sơn mài từ trang trí thành những tuyệt phẩm nghệ thuật. Gia Trí đã để lại một vẻ đẹp sơn mài lộng lẫy tôn giáo, cổ điển, bởi ông là người duy nhất đã khám phá ra linh hồn của sơn mài truyền thống, khiến nó không còn tầm thường nữa, mà đài các quí phái. Vẻ đẹp thiếu nữ trong tranh ông được diễn tả tài hoa là thể hiện của khát vọng tự do, mộng mơ. Tuy chưa được công nhận là Bảo vật Quốc gia nhưng tất cả các tác phẩm của ông dường như đã được ngầm coi là bảo vật và bị cấm đem khỏi lãnh thổ Việt Nam.
Tác phẩm “Vườn Xuân Trung Nam Bắc” đã đạt được nhiều kỷ lục: kích thước lớn nhất, phối hợp nhiều chất liệu truyền thống và được nhà nước mua với giá cao nhất (100.000USD, tương đương 600 triệu đồng Việt Nam thời điểm đó). Đó là tác phẩm được ghép từ 9 mảnh ván làm vóc được họa sĩ Nguyễn Gia Trí sáng tác trong gần 20 năm và cũng là tác phẩm cuối cùng của ông.
Phong cách nghệ thuật: Ông là người đi đầu trong việc chuyển những bức tranh sơn mài từ trang trí thành những tuyệt phẩm nghệ thuật. Ông phối hợp lối in khắc với những phương thức sơn mài mới, đồng thời áp dụng các nguyên tắc cấu trúc tranh vẽ phương tây, để tạo những bức họa hiện đại mang đầy tính chất dân tộc.
Tác phẩm chính: Thiếu nữ trong vườn, Vườn xuân Trung Nam Bắc, Thiếu nữ bên hoa phù dung.
Tác phẩm sơn mài “Vườn xuân Trung Nam Bắc” của họa sĩ Nguyễn Gia Trí.
2. Tô Ngọc Vân (1906 – 1954)
Nghệ danh: Tô Tử
Trong danh sách tứ kiệt, “Nhì Vân” chính là để nói Tô Ngọc Vân. Họa sĩ Tô Ngọc Vân là một danh họa, là niềm tự hào trong làng nghệ thuật của Việt Nam, tên ông còn được đặt cho một đường phố ở thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Ông đã để lại cho hội họa nước nhà những tác phẩm đặc sắc mang tầm quốc tế.
Kiệt tác “Thiếu nữ bên hoa huệ” được Tô Ngọc Vân sáng tác vào năm 1943 , khi ông đang giảng dạy tại Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. “Thiếu nữ bên hoa huệ” mô tả cảnh một thiếu nữ mặc áo dài trắng đang nghiêng đầu một cách đây duyên dáng, khơi gợi về phía lọ hoa huệ trắng. Hình dáng cô gái kết hợp với những chi tiết và màu sắc xung quanh tạo thành một khối giản dị, toát lên một nét buồn dịu nhẹ. Đáng tiếc là kiệt tác này giờ bị lưu lạc không biết ở đâu
Phong cách nghệ thuật: Tô Ngọc Vân được đánh giá là người có công đầu tiên trong việc sử dụng chất liệu tranh sơn dầu ở Việt Nam. Thông qua kỹ thuật, ông đã cố gắng diễn tả được vẻ đẹp duyên dáng người Việt Nam đương thời mà tiêu biểu là chân dung thiếu nữ.
Tác phẩm chính: Thiếu nữ bên hoa huệ, Hai thiếu nữ và em bé, Thiếu nữ với hoa sen.
Tranh sơn dầu “Thiêu nữ bên hoa huệ” của Tô Ngọc Vân.
Tranh “Hai thiếu nữ và em bé” của Tô Ngọc Vân.
3. Nguyễn Tường Lân (1906 – 1946)
Ông là một trong bộ tứ họa sĩ nổi tiếng thời kỳ đầu của nền mỹ thuật Việt Nam. Vì chiến tranh, không còn nhiều thông tin và tư liệu về Nguyễn Tường Lân, tranh của ông còn sót lại rất ít. Ông được xem là một trong số ít các họa sĩ đương thời có khả năng đưa các màu nguyên chất vào một sự hài hòa mang tính hư cấu, tượng trưng, giản dị và nhã nhặn, kể cả đối với tranh lụa. Ngay từ thập niên 1940, bằng nhịp điệu phóng khoáng của những vết bút lớn chạy trên sơ đồ trang trí, Nguyễn Tường Lân đã sớm phá cách để đi đến phong cách nghệ thuật trừu tượng hóa.
Ông học khóa 04 trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Sau khi tốt nghiệp, ông mở xưởng vẽ tại Hà Nội. Ông thuần thục hầu hết các chất liệu từ sơn dầu, sơn mài, lụa cho tới khắc gỗ, bột màu…Mặc dù sáng tác được nhiều tác phẩm nhưng số còn giữ lại chỉ đếm trên đầu ngón tay. Có lẽ cũng chính vì vậy mà hình ảnh và chỗ đứng của ông trong bộ tứ khá mờ nhạt, mong manh dù rằng ông là một họa sĩ kỳ tài Việt Nam.
Phong cách nghệ thuật: Thuần thục hầu hết các chất liệu sơn dầu, sơn mài, lụa, khắc gỗ, bột màu, chì than, Nguyễn Tường Lân đã sáng tác nhiều tác phẩm, tuy nhiên đến nay, rất ít ỏi các tác phẩm của ông còn sót lại.
Tác phẩm chính: Chợ miền núi, Hiện vẻ hoa, Đôi bạn
Tranh “Đôi bạn” của họa sĩ Nguyễn Tường Lân.
Tranh của Nguyễn Tường Lân minh họa cho câu thơ “Vầng trăng ai xẻ làm đôi”.
4. Trần Văn Cẩn (1910 – 1994)
Là người thứ tư trong danh sách tứ kiệt của nền hội họa Việt Nam, Trần Văn Cẩn đã để lại cho nền hội họa nước nhà những tác phẩm tiêu biểu, có giá trị cao về nghệ thuật và giàu tính nhân văn. “Em Thúy” là bức tranh sơn dầu được Trần Văn Cẩn sáng tác năm 1944. Có thể nói đó là đỉnh cao nghệ thuật Trần Văn Cẩn và cũng là đỉnh cao nghệ thuật Việt Nam. Với lối biểu hiện chân thực, nhẹ nhàng, không khoa trương, cường điệu, Trần Văn Cẩn đã níu kéo và lưu giữ người xem bằng vẻ đẹp ngây thơ, trong trắng. Ông không hề quan tâm đến trường phái khi vẽ mà chỉ cốt nêu lên thần thái của nhân vật.
Phong cách nghệ thuật: Ông cũng là một trong số ít các họa sĩ có sự thể nghiệm với nhiều chất liệu, thể loại khác nhau và chất liệu, thể loại nào cũng có tác phẩm thành công. Ông cũng là một trong số các họa sĩ đi đầu trong việc thể nghiệm, sáng tạo từ chất liệu sơn ta để làm tranh sơn mài, đưa sơn mài thành một chất liệu hội họa nổi tiếng, mang đặc trưng của hội họa dân tộc Việt Nam
Tác phẩm chính: Em Thúy
Tranh “Em Thúy” của họa sĩ Trần Văn Cẩn.
Tranh sơn dầu “Nữ dân quân miền biển” của Trần Văn Cẩn.
5. Nguyễn Tư Nghiêm (1922 – 2016)
Nguyễn Tư Nghiêm cũng là họa sĩ hiếm hoi của nền mỹ thuật Việt Nam có bảo tảng riêng, tọa lạc tại 90 B2 Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm. Giới phê bình nghệ thuật thời bấy giờ từng nhìn nhận, tranh của danh họa Nguyễn Tư Nghiêm phối hợp bút pháp hiện đại với tư duy cổ truyền, địa phương, tạo nên bản sắc riêng. Đường nét, màu sắc, nhịp điệu, không khí luôn luôn được phong cách hóa, dựa theo họa tiết trống đồng Đông Sơn, hoa văn đồ gốm Lý Trần, tranh tượng dân gian, kiến trúc đình chùa, nhịp điệu chèo tuồng, múa hát truyền thống. Kỹ thuật tạo hình, cho dù hiện đại và cách điệu, vẫn gợi được lên khí hậu tín ngưỡng dân tộc – và các nền văn hóa lân cận Đông Nam Á.
Phong cách nghệ thuật: Chất liệu mạnh nhất của Nguyễn Tư Nghiêm là sơn mài truyền thống nhưng không mài, và về sau là bột màu, giấy dó. Chủ đề hay gặp trong tranh ông là những điệu múa cổ, Thánh Gióng, Kiều và những con giáp. Màu ông yêu thích là màu của dân gian Việt Nam.
Tác phẩm chính: Điệu múa cổ, Xuân hồ Gươm, 12 con giáp
Tranh sơn màu Xuân hồ Gươm” của Nguyễn Tư Nghiêm.
Tranh bột màu “12 con giáp” của Nguyễn Tư Nghiêm.
Nguồn: tổng hợp